Thực đơn
Hiệp_hội_Công_nghiệp_Ghi_âm_Ba_Lan Chứng nhận và giải thưởngTrong bảng dưới đây, số ở ngoài dấu ngoặc là ngưỡng đạt chứng nhận đối với các tác phẩm được phát hành từ tháng 7 năm 2005 trở đi, còn số ở trong dấu ngoặc là ngưỡng đạt chứng nhận đối với các tác phẩm được phát hành trước mốc thời gian đó.[5]
Thể loại | Vàng | Bạch kim | Kim cương | ||
---|---|---|---|---|---|
Âm nhạc | |||||
Đĩa đơn | 10.000 | 20.000 | 100.000 | ||
Album | Pop | Nước ngoài | 10.000 (20.000) | 20.000 (40.000) | 100.000 (200.000) |
Trong nước | 15.000 (35.000) | 30.000 (70.000) | 150.000 (350.000) | ||
Cổ điển/Jazz/Blues | 5.000 | 10.000 | 50.000 | ||
Nhạc phim | 10.000 | 20.000 | 100.000 | ||
Classical - popular | 5.000 (10.000) | 10.000 (20.000) | 50.000 (100.000) | ||
Video | |||||
Đĩa đơn | 5.000 | 10.000 | 50.000 | ||
DVD/VHS etc. | Pop | 5.000 | 10.000 | 50.000 | |
Cổ điển/Jazz | 2,500 | 5.000 | 25.000 |
Chứng nhận vàng và bạch kim đầu tiên được trao lần lượt cho album Marysia Biesiadna của Maryla Rodowicz và album Three Tenors Live của The Three Tenors vào tháng 2 năm 1995. Chứng nhận kim cương đầu tiên được trao cho album Kayah i Bregović của nhạc sĩ Serbia Goran Bregović và ca sĩ Ba Lan Kayah vào tháng 7 năm 2000.[2]
ZPAV cũng trao nhiều chứng nhận bạch kim cho một tác phẩm cho đến khi tác phẩm đó đạt ngưỡng kim cương. Đối với các box set, mỗi đĩa được tính là một đơn vị. Chứng nhận cũng tính số lượt tải nhạc số, cụ thể là mười lượt tải bất kỳ bài hát nào trong một album được tính là một album.[5]
Fryderyk là một giải thưởng âm nhạc Ba Lan thường niên tương đương với giải Grammy của Mỹ hay giải BRIT của Anh. Fryderyk được ZPAV thành lập vào năm 1994 và lễ trao giải đầu tiên diễn ra vào năm 1995.[2] Từ năm 1999, đề cử và giải thưởng được lựa chọn bởi Viện hàn lâm Ghi âm (tiếng Ba Lan: Akademia Fonograficzna), một tổ chức được ZPAV thành lập vào năm 1998 và hiện bao gồm gần 1.000 nghệ sĩ và nhà báo.[6] Từ năm 2007 giải thưởng được tổ chức bởi STX Records.[2]
Từ năm 2010, ZPAV cũng trao giải "Bài hát nhạc số của năm" cho bài hát bán chạy nhất trên nền tảng số ở hai hạng mục nhạc Ba Lan và nhạc nước ngoài. Năm 2010, giải thưởng được trao cho "Nie mogę Cię zapomnieć" của Agnieszka Chylińska và "Womanizer" của Britney Spears. Năm 2011, giải thưởng được trao cho "Nie pytaj mnie" của Ala Boratyn và "Waka Waka" của Shakira.[7]
Thực đơn
Hiệp_hội_Công_nghiệp_Ghi_âm_Ba_Lan Chứng nhận và giải thưởngLiên quan
Hiệp ước Xô-Đức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Hiệp Hòa (huyện) Hiệp sĩ Teuton Hiệp sĩ Đền Thánh Hiệp khách giang hồ Hiệp sĩ lưu ban Hiệp sĩ Cứu tế Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân Hiệp ước MünchenTài liệu tham khảo
WikiPedia: Hiệp_hội_Công_nghiệp_Ghi_âm_Ba_Lan http://zpav.pl http://zpav.pl/ http://zpav.pl/onas/cotojestzpav.php http://zpav.pl/onas/historia.php http://zpav.pl/rankingi/listy/nielsen/index.php http://zpav.pl/rankingi/listy/olis/jakpowstaje.php http://zpav.pl/rankingi/wyroznienia/piosenka.php?l... http://zpav.pl/rankingi/wyroznienia/regulamin.php http://www.zpav.pl/fryderyk/akademia.php https://web.archive.org/web/20110809061534/http://...